Hệ miễn dịch là một
vỏ bọc hoàn hảo của mỗi cơ thể, có tác dụng bảo vệ cơ thể chống
lại các bệnh tật và vi khuẩn từ bên ngoài xâm nhập. Khi hệ miễn
dịch mất cơ thể sẽ đứng trước nguy cơ vô vàn vi khuẩn virus tấn công
phá hủy cơ thể chúng ta. Do vậy vai trò của hệ miễn dịch là không
thể bàn cãi. Tuy nhiên trong y học có những giai đoạn giải phẫu phải
cần ức chế hệ miễn dịch để tạo điều kiện cho cơ thể thích nghi với
một số bộ phận cấy ghép
Cocticosteoid ức chế đáp
ứng miễn dịch qua trung gian tế bào mạnh hơn là đáp ứng kháng thể. Tế bào T
giúp đỡ thường giảm trước tiên do có hiện tượng phân phối lại
Mặc dù đã có những tiến
bộ trong kỹ thuật định typ tổ chức và số nghiệm người cho-người nhận song việc
thải bỏ mảnh ghép đồng loài vẫn còn là một vấn đề trung tâm trong việc điều
hành người nhận ghép cơ quan. Sự hiểu biết thấu đáo mối liên hệ phân tử và tế
bào cơ sở trong thải bỏ mảnh ghép sẽ cải thiện được việc chọn lựa phương pháp
điều trị ức chế miễn dịch đặc hiệu, mà do đó sẽ dẫn đến kéo dài thời gian sống
thêm của mảnh ghép và giảm thiểu các tác dụng có hại. Nhiều thuốc mới có tiềm
năng giảm miễn dịch và giảm độc tính đang phát triển và thử thách trên lâm
sàng.
Corticosteroid
Nhóm thuốc này có tiềm năng
chống viêm và hiệu lực trực tiếp trên các tế bào có thẩm quyền miễn dịch.
Cocticosteoid ức chế đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào mạnh hơn là đáp
ứng kháng thể. Tế bào T giúp đỡ thường giảm trước tiên do có hiện tượng phân
phối lại. Bạch cầu trung tính tăng lên do sự đi ra ngoài rìa và phóng thích
của tủy xương. Các bạch cầu đơn nhân và ái toan giảm. Việc thay đổi tế bào này
dẫn đến giảm thiểu đáp ứng viêm. Sự phá vỡ mối tương tác giữa tế bào T và các
đại thực bào cho thấy là một cơ chế quan trọng và corticosteroid được biết là
ức chế hoạt động của tế bào T bởi interleukin-l (IL-l) dẫn xuất từ các đại thực
bào. Thêm vào đó, corticosteroid ngăn chặn sự biểu hiện của kháng nguyên hòa
hợp tổ chức lớp II trên bề mặt đại thực bào bằng cách can thiệp với sự hiện
diện của kháng nguyên vào tế bào T.
Các thuốc độc tế bào
Các thuốc độc tế bào
thường rất hay dùng là azathioprin và cyclophosphamid. Azathioprin là một dẫn
chất của mercaptopurin, một chất đối kháng tổng hợp purin. Azathioprin là một
thuốc đặc hiệu phá giết rất nhanh các tế bào sao chép. Thuốc ức chế sự tăng
sinh của cả tế bào B và T cũng như các đại thực bào. Cyclophosphamid là một
chất alkyl hóa tiêu diệt tế bào bằng liên kết chéo ADN. Tuy loại thuốc đặc hiệu
chu kỳ này rất có hiệu quả giết tế bào thông qua chu kỳ phân bào song nó cũng
có thể gây chết và tổn thương tế bào liên phân bào. Cyclophosphaniid có thể ức
chế tính miễn dịch của cả tế bào T và B cũng như hiện tượng viêm. Azathioprin với tên thương hiệu là thuốc Imurel 50mg và Cyclophosphaníid đều là những chất ức chế một cách hiệu quả sản xuất kháng
thể trong huyết thanh.
Các chất chống chuyển
hóa
Chất chống chuyển hóa
thường được dùng là methotrexat, một chất ức chế tổng hợp acit folic.
Methotrexat ức chế nhanh các tế bào phân chia ở pha S và ngăn chặn cả miễn dịch
qua trung gian tế bào lẫn qua thể dịch cũng như ức chế hiện tượng viêm.
Cyclosporin
Loại polypeptid vòng này
dẫn xuất từ một loại nấm, mới được sử dụng gần đây như một thuốc ức chế miễn
dịch cho người nhận ghép cơ quan. Cyclosprin tham gia với sự bài tiết
interleukin 2 (IL-2) bởi lympho bào T. Vì IL-2 cần thiết cho việc sao chép tế
bào T mà cyclosporin là chất ức chế tiềm năng của sự sinh tế bào T và do vậy ức
chế được đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào T. Hiệu lực nhỏ bé cũng đã
thấy trên đáp, ứng tế bào B hay trên viêm nhiễm. Tác dụng độc của thuốc trước
hết là đối với chức năng gan và thận.
Tacrolimus (FK506)
Một loại thuốc mới được
phát triển để dùng trong cấy ghép nội tạng, FK 506 là một macrolid có đặc tính chống tế bào
T và kiểu tác động cũng như của cyclosporin. Giống cyclosporin, tacrolimus 506
ức chế IL-2, ức chế sự sản xuất inteferon γ và sự hoạt hóa tế bào T. Thử nghiệm
lâm sàng được tiến hành trong ghép tim, gan, thận.
Thông tin thuốc ức chế miễn dịch được giới thiệu trên shop mua bán thuốc tây