Thứ Hai, 14 tháng 2, 2022

Biến chứng tim mạch hậu Covid nặng nề hơn bạn nghĩ

 

Biến chứng hậu Covid là vấn đề nóng hiện nay của nhiều diễn đàn liên quan bệnh covid. Hãy cùng shop thuốc tây đặc trị tham khảo bài viết bên dưới

Di chứng hậu Covid-19 có cảm giác mệt hơn rất nhiều so với lúc dương tính, không thể làm được việc gì nặng, đi bộ quanh nhà một lúc cũng cảm thấy hụt hơi

Những bệnh nhân mắc Covid-19 nặng nguy kịch, hay có bệnh nền tim mạch sau khi khỏi Covid-19 thường khó tránh tình trạng biến chứng tim mạch. Đó là nhận định của các chuyên gia tim mạch

Nguy cơ viêm tim cấp

Theo các chuyên gia hơn một tuần sau khi khỏi Covid-19, nhiều trường hợp thường xuyên bị những cơn đau tức ngực, có lúc nghe tim đập mạnh như tiếng trống, cảm giác rất mệt mỏi. Tình trạng này chiếm đa số ở những trường hợp sau khỏi Covid-19. Có những người phải chịu tổn thương tim lâu dài, phải điều trị từ 3 đến hơn 6 tháng vẫn chưa khỏi cảm giác mệt và rối loạn nhịp tim.

Theo BS Hảo biến chứng tim mạch hậu Covid-19 không hẳn chỉ xảy ra ở những người mắc Covid-19 nặng nguy kịch, hay có bệnh nền tim mạch. Mà cá biệt ở những bệnh nhân nhẹ, không triệu chứng vẫn có thể mắc những di chứng nguy hiểm về tim mạch. Bệnh nhân có thể bị suy tim, dẫn đến tình trạng ngộp thở khi đang ngủ ban đêm. Nếu không phát hiện kịp thời những biến chứng tim mạch, bệnh nhân có thể bị viêm tim cấp dẫn đến tử vong.

BS Trần Thị Tuyết Lan - chuyên khoa Nội tim mạch, Viện Tim TP HCM - cho biết nhiều bệnh nhân mắc Covid-19 thường khó tránh viêm phổi và tổn thương cơ tim cấp tính như viêm cơ tim, hay tổn thương mạn tính hệ tim mạch như xơ hóa mô kẽ cơ tim, viêm mạch máu, thuyên tắc huyết khối và rối loạn nhịp tim.

Theo BS Lan, tổn thương cơ tim trực tiếp là do SARS-CoV-2 và gián tiếp do "bão cytokine" gây viêm và hoại tử các tế bào cơ tim và hậu quả là suy tim. Triệu chứng viêm cơ tim có thể từ nhẹ đến rất nặng như mệt, khó thở tùy mức độ suy tim, sưng chân, tim đập nhanh, đau ngực. Khi bệnh nhân được làm siêu âm tim thì thấy tim giãn lớn, các thành tim giảm động, phân suất tống máu thất trái giảm và tăng áp động mạch phổi.

Tác dụng phụ của thuốc chống virus, thuốc kháng sinh, tình trạng giảm ôxy máu, rối loạn điện giải khi mắc Covid-19 sẽ làm nặng thêm các rối loạn nhịp tim sẵn có. Các rối loạn nhịp tim thường gặp là rung nhĩ, cơn nhịp nhanh thất không kéo dài, ngừng tim và nhịp tim chậm

Quá trình tổn thương tế bào nội mạc mạch máu và viêm mạch máu do SARS-CoV-2 cũng làm tăng nguy cơ hình thành huyết khối (cục máu đông) trong lòng mạch máu và gây thuyên tắc mạch máu do huyết khối. Các biến cố huyết khối thường gặp ở bệnh nhân Covid-19 nguy kịch, phải thở máy. Thuyên tắc huyết khối ở các vị trí nguy hiểm đều có thể dẫn đến đột tử như thuyên tắc động mạch phổi, nhồi máu cơ tim cấp.

Trên đây là những thông tin thiết thực của những trường hợp từng bị nhiễm covid. Bạn đọc cần phải hiểu rõ để nhận định đúng về tác hại mà SARS-CoV-2 mang lại để có những chuẩn bị và ý thức phòng tránh tốt hơn. Hiện đang có một quan niệm nguy hiểm là khi đã tiêm vaccine thì nhiễm covid cũng như các cảm cúm thông thường và ở những thời điểm độc tính không mạnh như hiện nay nhiễm covid sẽ tốt hơn vì có thể tạo kháng thể cao. Những ai có suy nghĩ như vậy hãy nên tham khảo những thông tin về triệu chứng hậu covid như bài viết này nhé

Nguồn sưu tầm

Tham khảo các sản phẩm thuốc tim mạch của shop thuốc tây đặc trị tại đây

Chủ Nhật, 18 tháng 7, 2021

Một số yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú

 

Trong bài viết của blog Maizo chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu những yếu tố nào có thể ảnh hưởng đến bệnh ung thư vú. Dưới đây là những yếu tố liên quan


Bạn là nữ giới

Đây là yếu tố nguy cơ chính của ung thư vú. Nam giới cũng có thể bị ung thư vú, nhưng bệnh này phổ biến ở phụ nữ hơn nam giới.

Khi tuổi cao

Khi bạn già đi, nguy cơ ung thư vú của bạn sẽ tăng lên. Hầu hết ung thư vú được phát hiện ở phụ nữ từ 55 tuổi trở lên.

Di truyền từ ông bà cha mẹ

Khoảng 5% đến 10% các trường hợp ung thư vú được cho là do di truyền, có nghĩa là chúng là kết quả trực tiếp từ những thay đổi gen (đột biến) được truyền từ cha hoặc mẹ.

Nguồn gốc chủng tộc

Phụ nữ da trắng có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn một chút so với phụ nữ Mỹ gốc Phi, mặc dù khoảng cách giữa họ đã được thu hẹp trong những năm gần đây.

Ở phụ nữ dưới 45 tuổi, ung thư vú phổ biến hơn ở phụ nữ Mỹ gốc Phi. Phụ nữ Mỹ gốc Phi cũng có nhiều khả năng chết vì ung thư vú hơn ở mọi lứa tuổi. Phụ nữ Châu Á, Tây Ban Nha và Mỹ bản địa có nguy cơ phát triển và tử vong do ung thư vú thấp hơn

Có mô vú dày đặc

Vú được tạo thành từ mô mỡ, mô sợi và mô tuyến. Vú xuất hiện dày đặc hơn trên chụp X-quang tuyến vú khi chúng có nhiều mô tuyến và mô sợi hơn và ít mô mỡ hơn.

Những phụ nữ có bộ ngực dày đặc khi chụp X-quang tuyến vú có nguy cơ bị ung thư vú cao gấp khoảng 1/2 đến 2 lần so với phụ nữ có mật độ vú trung bình. Mô vú dày đặc cũng có thể khiến bạn khó nhìn thấy ung thư hơn trên phim chụp quang tuyến vú.

Kinh nguyệt sớm

Những phụ nữ có nhiều chu kỳ kinh nguyệt hơn vì họ bắt đầu có kinh sớm (đặc biệt là trước 12 tuổi) có nguy cơ ung thư vú cao hơn một chút. Sự gia tăng nguy cơ có thể do thời gian tiếp xúc lâu hơn với các hormone estrogen và progesterone.

Có bức xạ vào ngực của bạn

Những phụ nữ được điều trị bằng xạ trị vào ngực vì một bệnh ung thư khác (chẳng hạn như ung thư hạch Hodgkin hoặc không Hodgkin) khi còn trẻ có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn đáng kể. Nguy cơ này phụ thuộc vào tuổi của họ khi họ bị nhiễm xạ. Nguy cơ cao nhất đối với những phụ nữ bị bức xạ khi còn là thanh thiếu niên hoặc thanh niên, khi vú vẫn đang phát triển.

Yếu tố nguy cơ ung thư vú liên quan đến lối sống

Yếu tố nguy cơ là bất cứ điều gì làm tăng khả năng mắc bệnh, chẳng hạn như ung thư vú. Nhưng có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ không có nghĩa là bạn chắc chắn mắc bệnh.

Uống rượu

Uống rượu rõ ràng có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư vú. Nguy cơ tăng lên theo lượng rượu tiêu thụ. Phụ nữ uống 1 ly rượu mỗi ngày có nguy cơ tăng nhỏ (khoảng 7% đến 10%) so với những người không uống rượu, trong khi những phụ nữ uống 2 đến 3 ly mỗi ngày có nguy cơ cao hơn khoảng 20% so với những người không uống.

Thừa cân hoặc béo phì

Thừa cân hoặc béo phì sau khi mãn kinh làm tăng nguy cơ ung thư vú. Trước khi mãn kinh, buồng trứng của bạn tạo ra hầu hết estrogen và mô mỡ chỉ tạo ra một phần nhỏ trong tổng số lượng.

Sau khi mãn kinh (khi buồng trứng ngừng sản xuất estrogen), hầu hết estrogen của phụ nữ đến từ mô mỡ. Có nhiều mô mỡ hơn sau khi mãn kinh có thể làm tăng nồng độ estrogen và làm tăng khả năng mắc ung thư vú.

Không hoạt động thể chất

Hoạt động thể chất thường xuyên làm giảm nguy cơ ung thư vú, đặc biệt là ở phụ nữ đã qua thời kỳ mãn kinh. Câu hỏi chính là cần bao nhiêu hoạt động. Một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng chỉ vài giờ một tuần cũng có thể hữu ích, mặc dù nhiều hơn có vẻ tốt hơn.

Kiểm soát sinh sản

Một số phương pháp kiểm soát sinh sản sử dụng hormone, có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú:

             Uống thuốc tránh thai: Hầu hết các nghiên cứu đều phát hiện ra rằng phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai (thuốc tránh thai) có nguy cơ ung thư vú cao hơn một chút so với những phụ nữ chưa bao giờ sử dụng.

             Thuốc ngừa thai : Depo-Provera là một dạng progesterone dạng tiêm, được tiêm 3 tháng một lần để ngừa thai.

Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tăng nguy cơ ung thư vú mà chúng ta ít nhiều cũng nên quan tâm để hiểu rõ hơn và từ đó có những cách ngăn ngừa hiệu quả

Nguồn: sưu tầm

Xem thêm các sản phẩm thuốc điều trị ung thư tại đây

Chủ Nhật, 13 tháng 12, 2020

Cà rốt có tác dụng phòng nhiều bện

 

BẠN CÓ BIẾT CÀ RỐT CÓ TÁC DỤNG PHÒNG NHIỀU BỆNH

Cà rốt là loại củ dân dã, giá rẻ nhưng lại có nhiều công dụng tuyệt vời thậm chí là phòng ngừa ung thư. Sau đây thuốc tây đặc trị sẽ giới thiệu đến quý độc giả một số bài thuốc phòng trị bệnh liên quan đến cà rốt.



Cà rốt phòng ung thư

Bệnh ung thư ngày càng phổ biến với tỉ lệ tăng không ngừng hàng năm và ngày càng trẻ hóa. Ngày nay nhiều thực phẩm không an toàn, chứa nhiều hóa chất độc hại được dùng trong bữa ăn hằng ngày. Bệnh cũng từ đó mà đi vào cơ thể. Công thức thanh lọc và phòng chống bệnh ung thư từ cà rốt

Cà rốt 500 g, lê tươi 500 g, nước chín để nguội 1.000 ml, mật ong 20 ml. Lê rửa sạch để ráo nước, ngâm với nước muối 3% trong 15 phút, sau đó thái miếng, dùng máy ép lấy nước; cà rốt rửa sạch, cạo vỏ thái miếng, dùng máy ép lấy nước. Đây cũng là một loại đồ uống rất giàu chất dinh dưỡng, có tác dụng cường thân kiện lực, bồi bổ sức khỏe, làm đẹp da và tóc, phòng chống tích cực bệnh lý ung thư.

Cà rốt trị cao huyết áp

Bệnh huyết áp là căn bệnh thời đại phần lớn cũng do những thực phẩm chứa nhiều cholesterol xấu khi vào cơ thể đọng lại trên các thành mạch làm cản trở và tắc nghẽn mạch máu gây nên tình trạng lưu chuyển máu không ổn định

Cà rốt 250 g, quất 100 g, chuối tiêu chín 150 g, đường phèn vài miếng. Cà rốt rửa sạch, cạo vỏ, thái miếng, dùng máy ép lấy nước; quất vắt lấy nước cốt. Chuối tiêu bóc vỏ, đánh nhuyễn rồi đổ nước cà rốt và nước quất vào, quấy thật đều, chế thêm đường phèn, chia uống vài lần trong ngày. Loại nước này có mùi thơm khá đặc biệt, dễ uống và giá trị bổ dưỡng rất cao, đặc biệt thích hợp cho những người bị cao huyết áp và chán ăn.

Chữa ho gà

Củ cà-rốt 200g, táo tầu 12 quả, nước 1500ml, sắc còn 500ml, hòa thêm chút đường phèn vào cho dễ uống, uống 3 lần/ngày, liên tục trong 10 ngày. Hoặc có thể dùng 500g củ cà-rốt, ép lấy nước, thêm chút đường phèn vào rồi hấp nóng lên, uống ngày 2-3 lần. Bài thuốc này có tác dụng kiện tỳ, sinh tân, giải độc… Thường sử dụng như 1 biện pháp hỗ trợ trong việc điều trị bệnh ho gà ở trẻ nhỏ.

Bồi bổ cơ thể

Cà rốt 150 g, táo 150 g, nước ép chanh 15 ml, mật ong 10 ml. Cà rốt và táo rửa sạch, thái miếng rồi dùng máy ép lấy nước (với táo nên ép ngay vì để lâu sẽ bị biến màu, nếu cần thì ngâm trong dung dịch nước muối 2-3%), cho mật ong và nước chanh vào quấy thật kỹ và uống hằng ngày.

Chữa lên sởi

Củ cà rốt, mỗi thứ 150-200g, rau mùi 100g, sắc lấy nước uống thay trà trong ngày. Thứ trà này có tác dụng tốt trong việc hỗ trợ điều trị bệnh sởi, thường áp dụng vào thời kì cuối, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, dưỡng tâm sinh tân.

Cà rốt không những là nguyên liệu được dùng chế biến nhiều món ăn ngon nhưng ngoài ra còn có tác dụng phòng nhiều bệnh.

Xem thêm

Bệnh viêm nha chu tiềm ẩn nguy cơ gì

Nguyên nhân gây bệnh suy thận cấp



Add Comment

Thứ Ba, 21 tháng 4, 2020

Những Điều Cần Đọc Kỹ Khi Sử Dụng Thuốc ?

Thành phần
Ghi tên thuốc (dược chất) và các tá dược. Cần biết tên dược chất, vì đây chính là tên thuốc dùng cho việc điều trị. Đã có nhiều trường hợp bà mẹ cho con uống nhiều thuốc tưởng là khác nhau nhưng chỉ chứa một dược chất hạ sốt là paracetamol, dẫn đến trẻ bị ngộ độc thuốc.

Quy cách đóng gói
Cách ghi cụ thể về số lượng, khối lượng tịnh, thể tích thực của thuốc:
• Thuốc dạng viên: ghi số lượng viên. Riêng thuốc viên hoàn cứng: ghi khối lượng tịnh. Đơn vị gam (viết tắt là g), miligam (viết tắt là mg).
• Thuốc dạng bột, cốm, mỡ: ghi khối lượng tịnh. Đơn vị gam (g), miligam (mg).
• Thuốc dạng lỏng: ghi thể tích thực. Đơn vị mililít (ml), hoặc lít (là l).
Chỉ định
Là phần ghi những trường hợp dùng thuốc. Có thể ghi trường hợp bệnh điều trị cơn (như cao huyết áp) hoặc ghi trị tác nhân bệnh (trị giun đũa, giun kim, giun móc) hoặc dùng để dự phòng (dự phòng cơn đau thắt ngực). Cần đọc phần này để xem thuốc sẽ dùng có phù hợp với bệnh đang được điều trị hay không.
Cách dùng - liều dùng
Ghi cách dùng thuốc thế nào, như: ngậm dưới lưỡi, bôi ngoài da, uống hoặc tiêm bắp, tĩnh mạch, tiêm dưới da, hay tra (như thuốc nhỏ mắt)… Còn liều được ghi: liều dùng cho một lần, liều trong 24 giờ, liều cho một đợt điều trị.
Chống chỉ định
Là phần ghi những trường hợp không được dùng thuốc. Thường ghi một số đối tượng như: phụ nữ có thai, phụ nữ cho con bú, trẻ em dưới 15 tuổi, người bị suy gan, suy thận, người bị mẫn cảm dị ứng với bất cứ chất nào trong thành phần của thuốc… hoặc trường hợp nhược cơ, hôn mê gan, loét dạ dày tiến triển… Chống chỉ định phải hiểu là chống chỉ định tuyệt đối, tức là không vì lý do nào đó mà trường hợp chống chỉ định lại linh động được dùng thuốc.
Lưu ý thận trọng
Là phần ghi những lưu ý thêm, thí dụ có thuốc ghi trong thời gian dùng phải theo dõi chức năng gan, hoặc thuốc không được tiêm bắp mà phải tiêm tĩnh mạch chậm… Phần “lưu ý - thận trọng” có thể được xem là “chống chỉ định tương đối”. Có nghĩa là vì thận trọng có những trường hợp không được dùng thuốc nhưng không cấm hoàn toàn.
Tác dụng phụ (hoặc tác dụng ngoại ý)
Là phần ghi những tác dụng không phải dùng trong điều trị, xảy ra ngoài ý muốn. Ví dụ, một số thuốc dùng trong bệnh lý tim mạch uống vào là gây ho khan, hoặc có thuốc làm cho phân có màu đen, làm nước tiểu có màu vàng, màu xanh, đỏ… Một số tác dụng phụ của thuốc thường hay gặp: đau bụng vùng thượng vị, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, nhức đầu, chóng mặt… thường các tác dụng phụ này sẽ mất đi khi ngưng dùng thuốc.
Tương tác thuốc
Là phần ghi thuốc nếu dùng cùng lúc với một số thuốc khác sẽ bị các phản ứng bất lợi. Ví dụ, thuốc aspirin nếu dùng chung với các thuốc giảm đau, chống viêm giống như nó (được gọi là các thuốc chống viêm không steroid), sẽ đưa đến tương tác thuốc làm tổn hại niêm mạc dạ dày hơn, hay aspirin nếu dùng chung với thuốc chống đông như coumadin sẽ gây xuất huyết.
Hạn dùng
Hạn dùng được định nghĩa là “khoảng thời gian sử dụng được ấn định cho một lô thuốc (thuốc được sản xuất theo lô) mà sau thời hạn này thuốc đó không còn giá trị sử dụng”. Như vậy, nếu đọc trên nhãn thuốc hoặc bao bì: HD (hoặc Exp.Date): 30/8/2009, có nghĩa là trong suốt thời gian từ lúc thuốc xuất xưởng đến hết ngày 30/8/2009 thuốc có giá trị sử dụng, đến ngày 1/9/2009 thuốc quá hạn sử dụng. Nếu thuốc quá hạn dùng, phải bỏ đi, không được dùng.
Nguồn: https://muabanthuoctay.com

Thứ Tư, 25 tháng 3, 2020

Mô hình vi khuẩn liên quan đến ung thư

Mua bán thuốc tây - Các nhà nghiên cứu lần đầu tiên xem xét dữ liệu vi sinh vật có sẵn từ The Cancer Genome Atlas, cơ sở dữ liệu của Viện Ung thư Quốc gia có chứa bộ gen và thông tin khác từ hàng ngàn khối u bệnh nhân. Theo hiểu biết của nhóm, đây là nỗ lực lớn nhất từng được thực hiện để xác định DNA của vi sinh vật trong dữ liệu giải trình tự của con người.

Từ 18.116 mẫu khối u, đại diện cho 10,481 bệnh nhân với 33 loại ung thư khác nhau, đã xuất hiện các dấu hiệu vi khuẩn khác nhau, hoặc các mẫu, liên quan đến các loại ung thư cụ thể. Một số dự kiến, chẳng hạn như sự liên quan giữa papillomavirus ở người (HPV) và ung thư cổ tử cung, đầu và cổ, và mối liên quan giữa các loài Fusobacterium và ung thư đường tiêu hóa. Nhưng nhóm nghiên cứu cũng xác định các chữ ký vi khuẩn chưa biết trước đây phân biệt đối xử mạnh mẽ giữa các loại ung thư. Ví dụ, sự hiện diện của các loài Faecalibacterium phân biệt ung thư ruột kết với các bệnh ung thư khác.
Được trang bị hồ sơ microbiome của hàng ngàn mẫu ung thư, các nhà nghiên cứu sau đó đã đào tạo và thử nghiệm hàng trăm mô hình học máy để liên kết các mẫu vi khuẩn nhất định với sự hiện diện của các loại ung thư cụ thể. Các mô hình học máy có thể xác định loại ung thư của bệnh nhân chỉ bằng dữ liệu vi khuẩn từ máu của người đó.
Sau đó, các nhà nghiên cứu đã loại bỏ ung thư cấp độ cao (giai đoạn III và IV) khỏi bộ dữ liệu và phát hiện ra rằng nhiều loại ung thư vẫn có thể phân biệt được ở giai đoạn trước khi chỉ dựa vào dữ liệu vi khuẩn có nguồn gốc từ máu. Các kết quả được duy trì ngay cả khi nhóm thực hiện khử nhiễm sinh học nghiêm ngặt nhất trên các mẫu, loại bỏ hơn 90 phần trăm dữ liệu vi sinh vật.
Áp dụng xét nghiệm DNA vi sinh vật
Để xác định xem các mô hình vi sinh vật này có hữu ích trong thế giới thực hay không, Knight, Poore và nhóm đã phân tích các mẫu huyết tương có nguồn gốc từ máu từ 59 bệnh nhân đồng ý mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt, 25 bệnh nhân ung thư phổi và 16 với khối u ác tính, được cung cấp bởi các cộng tác viên tại Trung tâm Ung thư Moores tại Sức khỏe UC San Diego. Sử dụng các công cụ mới mà họ đã phát triển để giảm thiểu ô nhiễm, các nhà nghiên cứu đã phát triển cách đọc chữ ký của vi khuẩn cho từng mẫu bệnh nhân ung thư và so sánh chúng với nhau và với các mẫu huyết tương từ 69 tình nguyện viên âm tính với HIV khỏe mạnh, do Trung tâm nghiên cứu Neurobehavioral cung cấp tại UC Trường Y San Diego.
Các mô hình học máy của nhóm đã có thể phân biệt hầu hết những người mắc bệnh ung thư với những người không mắc bệnh. Ví dụ, các mô hình có thể xác định chính xác một người bị ung thư phổi với độ nhạy 86 phần trăm và một người không mắc bệnh phổi với độ đặc hiệu 100 phần trăm. Họ thường có thể cho biết những người tham gia có loại nào trong ba loại ung thư. Ví dụ, các mô hình có thể phân biệt chính xác giữa một người bị ung thư tuyến tiền liệt và một người bị ung thư phổi với độ nhạy 81 phần trăm.
"Khả năng, trong một ống máu, có một hồ sơ toàn diện về DNA (bản chất) của khối u cũng như DNA của microbiota của bệnh nhân, có thể nói, là một bước tiến quan trọng để hiểu rõ hơn về vật chủ- đồng tác giả môi trường trong bệnh ung thư, "đồng tác giả Sandip Pravin Patel, MD, bác sĩ chuyên khoa ung thư và đồng lãnh đạo của phương pháp điều trị thử nghiệm tại Trung tâm Ung thư Moores tại UC San Diego Health cho biết.
"Với phương pháp này, có khả năng theo dõi những thay đổi này theo thời gian, không chỉ là chẩn đoán, mà còn theo dõi điều trị lâu dài. Điều này có thể có ý nghĩa lớn đối với việc chăm sóc bệnh nhân ung thư và trong việc phát hiện sớm ung thư, nếu những kết quả này tiếp tục giữ trong thử nghiệm thêm. "
So sánh với chẩn đoán ung thư hiện nay
Theo Patel, chẩn đoán hầu hết các bệnh ung thư hiện cần phải sinh thiết phẫu thuật hoặc lấy mẫu ra khỏi vị trí nghi ngờ ung thư và phân tích mẫu bởi các chuyên gia tìm kiếm các dấu hiệu phân tử liên quan đến một số bệnh ung thư. Cách tiếp cận này có thể xâm lấn, tốn thời gian và chi phí.
Một số công ty hiện đang phát triển "sinh thiết lỏng" - phương pháp chẩn đoán nhanh các bệnh ung thư cụ thể bằng cách sử dụng công nghệ rút máu đơn giản và cho phép họ phát hiện đột biến gen đặc hiệu ung thư ở người do lưu hành DNA do khối u. Cách tiếp cận này có thể đã được sử dụng để theo dõi sự tiến triển của khối u đối với một số loại ung thư đã được chẩn đoán, nhưng chưa được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chấp thuận cho sử dụng chẩn đoán.
"Mặc dù đã có những tiến bộ đáng kinh ngạc trong lĩnh vực sinh thiết lỏng và phát hiện ung thư sớm, nhưng sinh thiết lỏng hiện tại vẫn chưa thể phân biệt đáng tin cậy sự biến đổi di truyền bình thường với ung thư sớm thực sự và họ không thể phát hiện ung thư khi có sự thay đổi gen của con người. Patel, người cũng là phó giám đốc của Trung tâm Liệu pháp Miễn dịch Chính xác San Diego, cho biết hoặc không thể phát hiện được.
Đó là lý do tại sao thường có nguy cơ sinh thiết lỏng hiện tại sẽ trả lại kết quả âm tính giả trong gánh nặng bệnh tật thấp. "Thật khó để tìm thấy một đột biến gen rất hiếm ở người trong một tế bào hiếm phát ra từ một khối u", Patel nói. "Chúng rất dễ bị bỏ qua và bạn có thể được bảo rằng mình không bị ung thư, khi bạn thực sự mắc bệnh."
Theo các nhà nghiên cứu, một lợi thế của việc phát hiện ung thư dựa trên DNA của vi khuẩn, so với DNA khối u lưu hành ở người, là sự đa dạng của nó giữa các vị trí cơ thể khác nhau. DNA của con người, ngược lại, về cơ bản là giống nhau trên khắp cơ thể. Bằng cách không dựa vào những thay đổi DNA hiếm ở người, nghiên cứu cho thấy rằng việc đọc DNA vi khuẩn dựa trên máu có thể phát hiện chính xác sự hiện diện và loại ung thư ở giai đoạn sớm hơn so với các xét nghiệm sinh thiết lỏng hiện tại, cũng như đối với các bệnh ung thư thiếu đột biến gen có thể phát hiện được. bởi những nền tảng đó.
 Xem thêm

Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2020

Nghiên Cứu Mới Về Khả Năng Sinh Sản Của Nam Giới

Mua bán thuốc tây - Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí JAMA Network Open vào tháng 2 năm 2020 báo cáo rằng những người đàn ông Đan Mạch theo chế độ ăn uống lành mạnh có tổng số tinh trùng cao nhất và hồ sơ nội tiết tố tốt hơn liên quan đến việc điều chỉnh nội tiết tố sinh sản, so với những người phương Tây

Xu hướng sinh sản của nam giới và các yếu tố đóng góp
Trong vài thập kỷ qua, khả năng sinh sản ở nam giới đã giảm đáng kể. Các nghiên cứu gần đây cho thấy giảm 50% đến 60% tổng số lượng tinh trùng trong những năm từ 1973 đến 2011 tại các quốc gia phát triển trên thế giới. Đây chỉ đơn thuần là sự tiếp nối của một xu hướng bắt đầu được nhìn thấy vào những năm 1940.
Các nghiên cứu khác cho thấy mức testosterone cũng đang giảm theo thời gian. Lý do cho những thay đổi này không rõ ràng nhưng có thể liên quan đến các hóa chất gây rối loạn nội tiết trong môi trường, ô nhiễm trong không khí chúng ta hít thở, và lối sống hoặc các yếu tố hành vi như hút thuốc và uống rượu.
Tuy nhiên, chế độ ăn uống là một đóng góp tiềm năng đáng kể khác cho chất lượng tinh dịch đi xuống này. Ở các nước phương Tây, loại thực phẩm được ăn thường xuyên đã trải qua một sự chuyển đổi rõ rệt. Ngày càng nhiều calo, thịt, phô mai, dầu, và chất béo, đường và bột tinh chế đang được dùng nhiều hơn.
Một số nghiên cứu trước đó đã cố gắng tìm mối liên hệ giữa chất dinh dưỡng cá nhân và chất lượng tinh dịch cũng như các hóa chất khác phản ánh sức khỏe của hệ thống sinh sản nam giới. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây tập trung vào chế độ ăn uống nói chung. Tuy nhiên, một yếu tố bị thiếu trong nhiều nghiên cứu là tác động của các biến thể cục bộ trong chế độ ăn uống đối với chức năng tinh hoàn được nhân đôi bởi các dấu hiệu như chất lượng tinh dịch, thể tích tinh hoàn và mức độ hormone sinh sản trong huyết thanh.
Nghiên cứu
Các nhà nghiên cứu muốn xem liệu có mối liên hệ nào giữa loại thức ăn mà một thanh niên trung bình ở Đan Mạch ăn và các dấu hiệu của chức năng tinh hoàn. Lý thuyết của họ là chế độ ăn uống lành mạnh sẽ cho thấy mối liên hệ với tinh dịch khỏe mạnh.
Các nhà nghiên cứu yêu cầu nam thanh niên tham dự bài kiểm tra thể lực bắt buộc ở tuổi 18 tại Đan Mạch để tham gia nghiên cứu. Sau đó, những người sẵn sàng điền vào các đặc điểm nhân khẩu học và hành vi lối sống của họ theo mẫu được cung cấp, lấy mẫu máu và tinh dịch, và được kiểm tra thể chất về cân nặng và chiều cao và thể tích siêu âm của tinh hoàn. Từ năm 2008 trở đi, bảng câu hỏi tần số thực phẩm đã được thêm vào. Chính nhóm sau này là trọng tâm của nghiên cứu hiện tại.
Có gần 3.000 người đàn ông tham gia vào nghiên cứu này. Các mô hình thực phẩm được phân loại dựa trên bảng câu hỏi tần số thực phẩm như một mô hình điển hình của phương Tây, thận trọng, bánh sandwich mở và giống như ăn chay.
             Chế độ ăn kiêng phương Tây bao gồm số lượng pizza, khoai tây chiên, thịt đỏ và thịt chế biến nhiều hơn, đồ ăn nhẹ, ngũ cốc tinh chế, đồ uống có đường và đồ ngọt.
             Chế độ ăn uống thận trọng có lượng cá, thịt gà, trái cây và rau và nước cao hơn.
            Mô hình bánh sandwich mở có lượng thịt chế biến lạnh lớn hơn với bánh mì ngũ cốc nguyên hạt, mayonnaise, gia vị, cá lạnh và sữa.
             Các mô hình giống như người ăn chay bao gồm rau, sữa đậu nành, trứng, nhưng không có thịt đỏ hoặc thịt gà.
Độ tuổi trung bình là 19 tuổi và 78% trong số họ có chỉ số khối cơ thể (BMI) bình thường.
Những phát hiện
Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy sự tương đồng tổng thể về lượng carbohydrate, nhưng lượng chất xơ, đường tổng và đường bổ sung đáng kể giữa các chế độ ăn kiêng. Cụ thể, chế độ ăn kiêng phương Tây có nhiều đường hơn và ít chất xơ hơn, đường ít thận trọng hơn, bánh sandwich mở nhiều chất xơ hơn và đường được thêm nhiều rau giống như rau. Tổng lượng chất béo cũng tương tự, nhưng có nhiều axit béo omega-3 chuỗi dài hơn trong chế độ ăn uống thận trọng, chủ yếu là do ăn cá. Sự khác biệt khác bao gồm lượng carotene và vitamin C và B.
Nhìn chung, tổng số tinh trùng trung bình là 140 triệu. Mức testosterone trung bình là 524 ng / dL. 55% có nồng độ tinh trùng trên 40 triệu / mL và 17% dưới giới hạn dưới mức bình thường.
Tuy nhiên, theo nhóm, nhóm mẫu khôn ngoan có tổng số trung bình cao nhất là 167 triệu và nhóm ăn kiêng phương Tây thấp nhất, ở mức 122. Các mẫu giống như rau và các nhóm mẫu bánh sandwich mở có số lượng trung bình là 151 và 146 triệu, tương ứng. Nồng độ tinh trùng cao nhất so với nhóm kiểu phương Tây là ở nhóm thuần chay và nhóm thận trọng. Xu hướng này xuất hiện trở lại với tất cả các thông số tinh dịch cũng như thể tích tinh hoàn, cũng như nồng độ hormone sinh sản.
Nhìn chung, theo chế độ ăn kiêng phương Tây, hầu hết thời gian tương quan với khả năng có một hoặc nhiều thông số tinh dịch dưới giới hạn tham chiếu thấp hơn do WHO đặt ra - nói cách khác, tinh dịch chất lượng thấp. Một mức độ ức chế B thấp hơn, và tỷ lệ ức chế B so với FSH thấp hơn, cũng có nhiều khả năng trong nhóm này. Điều này cho thấy tỷ lệ sản xuất tinh trùng thấp hơn.
Chế độ ăn uống thận trọng tương quan với một mẫu tinh dịch chất lượng cao hơn. Mẫu bánh sandwich mở được liên kết với số lượng tinh trùng di động cao hơn và mẫu giống như rau có tỷ lệ tinh trùng bình thường hơn đáng kể.
Các nhà nghiên cứu chỉ ra vai trò có thể có của cơ hội hoặc sự khác biệt về lượng chất dinh dưỡng giữa các nhóm. Tuy nhiên, họ cho rằng sự tuân thủ lớn hơn với mô hình chế độ ăn uống phương Tây có liên quan đến chức năng vùng dưới đồi và tỷ lệ sản xuất tinh trùng thấp hơn. Họ nói rằng, nếu các hiệp hội phản ánh quan hệ nhân quả, việc tuân thủ chế độ ăn kiêng phương Tây có thể dẫn đến giảm sinh tinh trùng nguyên phát và thứ phát kết hợp.
Phần kết luận
Nếu các kết quả nghiên cứu được xác thực, theo các nhà nghiên cứu, những phát hiện này có thể gợi ý khả năng sử dụng can thiệp chế độ ăn uống như một cách tiếp cận tiềm năng để cải thiện chức năng tinh hoàn ở nam giới trong độ tuổi sinh sản.
 Xem thêm:

Ăn Nhiều Vào Buổi Tối Tăng Nguy Cơ Mắc Bệnh Tim Mạch

Theo nghiên cứu sơ bộ được trình bày tại Hội thảo khoa học của Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ, phụ nữ tiêu thụ tỷ lệ calo hàng ngày cao vào buổi tối sẽ có nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hơn so với những phụ nữ tiêu thụ calo ở mức thông thường

Các nhà nghiên cứu đã đánh giá sức khỏe tim mạch của 112 phụ nữ (độ tuổi trung bình 33, 44% gốc Tây Ban Nha) bằng các biện pháp Simple 7® của Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ khi bắt đầu nghiên cứu và một năm sau đó. Life 'Simple 7 đại diện cho các yếu tố rủi ro mà mọi người có thể cải thiện thông qua thay đổi lối sống để giúp đạt được sức khỏe tim mạch lý tưởng và bao gồm không hút thuốc, hoạt động thể chất, ăn thực phẩm lành mạnh và kiểm soát trọng lượng cơ thể, cùng với đo cholesterol, huyết áp và lượng đường trong máu. Điểm số về sức khỏe của tim dựa trên việc đáp ứng Life 'Simple 7 đã được tính toán.
Những người tham gia nghiên cứu giữ nhật ký thực phẩm điện tử bằng máy tính hoặc điện thoại di động để báo cáo những gì, bao nhiêu thực phẩm họ ăn trong một tuần từ khi bắt đầu nghiên cứu và trong mỗi tuần 12 tháng sau đó. Dữ liệu từ nhật ký thực phẩm được hoàn thành bởi mỗi người phụ nữ đã được sử dụng để xác định mối quan hệ giữa sức khỏe của tim và thời điểm khi họ ăn.
Các nhà nghiên cứu tìm thấy:
             Trong khi hầu hết những người tham gia nghiên cứu tiêu thụ một số thực phẩm sau 6 giờ chiều, những người tiêu thụ tỷ lệ calo hàng ngày cao hơn sau thời gian này có sức khỏe tim kém hơn.
             Với mỗi lần tăng 1% lượng calo tiêu thụ sau 6 giờ chiều, sức khỏe của tim giảm.
             Cụ thể, những phụ nữ tiêu thụ nhiều calo hơn sau 6 giờ chiều có nhiều khả năng bị huyết áp cao hơn, chỉ số khối cơ thể cao hơn và kiểm soát lượng đường trong máu kém hơn.
             Những phát hiện tương tự xảy ra với mức tăng 1% lượng calo tiêu thụ sau 8 giờ tối
             Tác động đối với huyết áp rõ rệt hơn ở phụ nữ Tây Ban Nha, những người tiêu thụ hầu hết lượng calo của họ vào buổi tối và vẫn tồn tại ngay cả sau khi điều chỉnh theo tuổi tác và tình trạng kinh tế xã hội.
Nour Makarem, Tiến sĩ, một nhà khoa học nghiên cứu tại Đại học Bác sĩ và Bác sĩ phẫu thuật của Đại học Columbia ở New York cho biết: "Cho đến nay, các cách tiếp cận lối sống để ngăn ngừa bệnh tim đã tập trung vào những gì chúng ta ăn và ăn bao nhiêu". York. "Những kết quả sơ bộ này chỉ ra rằng việc ăn có chủ ý chú ý đến thời gian và tỷ lệ calo trong bữa ăn tối có thể thể hiện một hành vi đơn giản, có thể điều chỉnh có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim."
Các kết quả nên được xác nhận trong một mẫu lớn hơn và trong các quần thể khác, Makarem, thành viên của Hội đồng Dịch vụ sớm về dịch tễ học và phòng chống dịch tễ học của Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ cho biết.
Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ đã tài trợ cho nghiên cứu này thông qua sáng kiến Mạng lưới nghiên cứu tập trung chiến lược dành cho phụ nữ.
Kristin Newby, MD, chủ tịch ủy ban cố vấn giám sát Mạng lưới nghiên cứu tập trung chiến lược cho phụ nữ, cho biết loại nghiên cứu này rất quan trọng để giúp phụ nữ ở mọi lứa tuổi hiểu rõ hơn và quản lý rủi ro sức khỏe của họ.
"Tôi nghĩ rằng đây là một nghiên cứu quan trọng, nó là nền tảng hơn là dứt khoát vào thời điểm này, nhưng tôi nghĩ nó cung cấp một số hiểu biết thực sự thú vị về khía cạnh dinh dưỡng và cách nó liên quan đến các yếu tố nguy cơ tim mạch mà chúng ta thực sự chưa từng nghĩ đến trước đây", Newby, giáo sư y khoa và tim mạch tại Đại học Duke ở Durham, Bắc Carolina cho biết. "Không bao giờ là quá sớm để bắt đầu suy nghĩ về sức khỏe tim của bạn cho dù bạn 20 hay 30 hay 40 hay chuyển sang thập niên 60 và 70. Nếu bây giờ bạn khỏe mạnh hoặc nếu bạn bị bệnh tim, bạn luôn có thể làm được nhiều hơn thế. đi cùng với trái tim thông minh và trái tim khỏe mạnh. "
Nghiên cứu trên là cơ sở để chúng ta ý thức được thời gian và tổng số năng lượng hấp thu trong bữa ăn giúp đảm bảo cơ thể hấp thu vừa đủ để có một sức khỏe tim mạch tối ưu nhất
 Xem thêm: