Thương hàn là bệnh
lý cấp tính do trực khuẩn Salmonella (typhi và paratyphi A, B) gây nên.
Bệnh thường xảy ra sau mùa mưa lũ ở những nơi
có điều kiện vệ sinh kém với nguồn lây nhiễm từ đồ ăn, thức uống chưa được nấu
chín, do tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân hay gián tiếp qua đồ dùng và bệnh
phẩm của bệnh nhân. Để điều trị hiệu quả bệnh hiện nay vẫn là việc dùng thuốc,
trong đó quan trọng nhất là thuốc kháng sinh và dung dịch bù nước, điện giải.
Biến chứng do bệnh
gây ra là gì?
Sau khi phơi nhiễm hay ăn phải thức ăn, nước
uống chứa Salmonella, vi khuẩn xâm nhập qua ruột non, đi vào bạch huyết rồi nhân
lên trong gan, túi mật, lá lách, tủy xương, máu và nhiều cơ quan khác gây bệnh.
Thể bệnh thương hàn điển hình thông thường trải qua 4 giai đoạn. Giai đoạn ủ
bệnh kéo dài trung bình 1- 2 tuần và không có triệu chứng. Giai đoạn khởi phát
diễn biến từ từ trong 1 tuần. Giai đoạn toàn phát kéo dài 2 tuần, bệnh nhân sốt
cao liên tục 39-400C và có những biểu hiện của hội chứng nhiễm độc
thần kinh như nhức đầu, mất ngủ, ác mộng, nói ngọng, tay run, mắt đờ đẫn. Nặng
hơn bệnh nhân có thể li bì, mê sảng, ít gặp hơn là hôn mê. Giai đoạn này, bệnh
nhân thường bị đau trướng bụng nhẹ, đi ngoài phân lỏng sệt, màu vàng nâu, mùi
rất khó chịu, khoảng 5-6 lần/ngày. Tới giai đoạn lui bệnh, trong khoảng 1 tuần,
thân nhiệt dao động mạnh rồi giảm từ từ. Bệnh nhân đỡ mệt, ăn ngủ khá hơn, hết
rối loạn tiêu hoá và dần hồi phục.
Một số biến chứng thường gặp trên hệ tiêu
hóa, tim mạch, thần kinh như: xuất huyết tiêu hóa, thủng ruột, viêm cơ tim,
trụy mạch, viêm gan, viêm túi mật, viêm màng não, viêm cầu thận, viêm bể thận,
suy thận, viêm phổi, tràn mủ màng phổi, viêm xương, viêm màng xương là những
biến chứng hiếm gặp hơn ở hệ hô hấp, tiết niệu, xương khớp.
Các thuốc hàng đầu điều trị bệnh
Khi bệnh nhân có dấu hiệu nghi ngờ mắc bệnh
thương hàn, người nhà cần đưa bệnh nhân đến ngay cơ sở y tế để được chẩn đoán
sớm. Khi đã được chẩn đoán xác định, bệnh nhân phải được cách ly để điều trị,
đồng thời theo dõi chặt chẽ để phát hiện sớm các biến chứng và can thiệp kịp
thời.
Nguyên tắc điều trị cho bệnh nhân thương hàn là dùng kháng
sinh đặc hiệu để tiêu diệt vi khuẩn và điều trị các triệu chứng cũng như biến
chứng gặp phải. Hiện nay, ở nước ta, trực khuẩn thương hàn đã kháng lại với các
loại kháng sinh trước đây thường dùng để điều trị như cloramphenicol, ampiciline,
co - trimmoxazole nhưng vẫn còn nhạy cảm với các kháng sinh thuộc nhóm
fluoroquinolone thế hệ 2 và một số cephalosporine thế hệ 3.Vì vậy, hai nhóm này
được lựa chọn là thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh nhân thương hàn trong các
phác đồ kéo dài từ 7- 14 ngày.
Một số fluoroquinolone:
Thuốc trong nhóm này thường được dùng trong điều trị bao gồm ofloxacine,
fleroxacine, ciprofloxacine, pefloxacine, nofloxacine dạng viên với các hàm
lượng khác nhau. Đối với các thể thương hàn nặng, có biến chứng, bệnh nhân
không uống được thì phải dùng thuốc qua đường tĩnh mạch cho đến khi có thể thay
bằng đường uống. Việc pha chế thuốc truyền tĩnh mạch phải được thực hiện đúng
chuẩn, vô khuẩn. Fluoroquinolone là nhóm thuốc có tác dụng diệt khuẩn mạnh ngay
cả với những chủng thương hàn đa kháng thuốc. Nhưng khi dùng thường gặp tác
dụng không mong muốn như mệt mỏi, rối loạn tiêu hóa, buồn nôn, chóng mặt, ảo
giác, tăng men gan tạm thời…
Nhóm cephalosporine:
Nhóm thuốc này trong điều trị sốt thương hàn thường dùng có ceftriaxone và
cefotaxim tiêm tĩnh mạch. Tuy nhiên, các cephalosporine chỉ dùng dạng tiêm, giá
thành cao, cắt sốt chậm hơn lại có thể gây dị ứng và đã có tỉ lệ kháng thuốc
nhất định. Song ưu điểm của nhóm này là dùng được cho phụ nữ có thai, phụ nữ
đang cho con bú và trẻ em.
Thuốc hạ sốt, an thần: Khi
bệnh nhân có các triệu chứng sốt cao hay mất ngủ, cần được dùng thuốc hạ sốt,
an thần.
Bù nước và điện giải: Nếu
người bệnh có dấu hiệu mất nước, điện giải do sốt kéo dài và do đi ngoài thì
cần được bổ sung 1,5- 2 lít dịch/ ngày. Tuy không điều trị được nguyên nhân
nhưng đây là biện pháp căn bản để chống mất nước và điện giải, từ đó tránh được
các rối loạn do mất nước và điện giải gây ra. Dịch bù nước điện giải cho bệnh
nhân có thể dùng glucose 5%, ringerlactat và natri chlorid 0,9% hay oresol. Khi
pha chế gói oresol cần chú ý pha thuốc đúng tỷ lệ, nếu quá loãng sẽ không cung
cấp đủ lượng chất điện giải cần thiết, nếu quá đặc sẽ dẫn đến tình trạng quá
tải các chất điện giải.
Bên cạnh đó, chế độ ăn lỏng, mềm và đủ dinh dưỡng cho
bệnh nhân là cần thiết. Đến thời kỳ hồi phục, bệnh nhân có thể ăn đồ đặc hơn.
Nguồn : SKĐS
Trang mua bán thuốc tây cung cấp hầu hết các sản phẩm thuốc đặc trị nhập khẩu với giá tốt nhất thị trường. Chi tiết liên hệ 0336.443.776
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét